Dịch não tủy được sản xuất ở não thất bên. Ngoài não thất bên, não thất còn có não thất ba và não thất bốn.
Hệ thống não thất có thể được gọi là "hồ chứa" dịch não tủy, dịch não tủy chảy từ não thất bên đến não thất ba rồi đến não thất bốn.
Dịch não tủy được hấp thụ thông qua các hạt màng nhện, hấp thụ vào hệ thống tĩnh mạch.
Quá trình tuần hoàn nói trên nghe có vẻ là một môi trường rất kín.
Đúng vậy. Chúng ta thường nghe nói về hàng rào máu não, chính xác là bao gồm ba loại hàng rào nghĩ, máu - não, máu - dịch não tủy, và dịch não tủy - não. Môi trường dịch não tủy kín như vậy, có thể thấy được phần nào.
Cấu trúc cụ thể của "tính kín" và "hàng rào" phức tạp hơn, có thể giải thích ở cấp độ tế bào học và cơ học vật lý.
Trở lại chủ đề bệnh nhân này, tràn dịch não, tức là lượng "nước", dịch não tủy trong não nhiều. Dịch não tủy nhiều, có nghĩa là "nước" có thể phân bố quá nhiều, có thể cơ chế hấp thụ gặp vấn đề, có thể đường lưu thông bị cản trở: “nước" không thể lưu thông tuần hoàn, kết quả là làm "hồ chứa" dịch não tủy bị căng phồng lên.
Biểu hiện lâm sàng trên CT là hệ thống não thất giãn rộng và/hoặc khoang dưới nhện giãn rộng, chèn ép mô não bình thường, thường kèm theo teo não. Teo não là bệnh gì? Vừa mới nói đến bệnh teo tiểu não, chỉ có điều nghiêm trọng hơn teo tiểu não.
Triệu chứng điển hình nghĩ, Ở người lớn, bệnh nhân đau đầu dữ dội, buồn nôn, nôn mửa, rối loạn tâm thần, ngủ lịm, mê sảng, mất phối hợp vận động, đại tiểu tiện không tự chủ, v.v.
Xét đến những điều vừa nói về dịch não tủy, có thể thấy nếu tràn dịch não do các bệnh khác gây ra, ví dụ như u, có thể dùng phương pháp ngoại khoa để giải quyết.
Tuy nhiên, trên lâm sàng, nhiều bệnh nhân tràn dịch não không tìm thấy nguyên nhân rõ ràng. Nếu liên quan đến vấn đề phân bố phức tạp hơn, tự nhiên dùng nội khoa giải quyết sẽ tốt hơn ngoại khoa.
Ngoại khoa không trị tận gốc, e rằng sẽ tái phát thường xuyên, hà cớ gì phải để bệnh nhân chịu thêm một nhát dao.
Nếu nhất định phải dùng phương pháp ngoại khoa, cần phải xác định nguyên nhân là do ngoại khoa có thể giải quyết được.
Ví dụ như phẫu thuật tạo lỗ thông não thất ba xuống đáy não thất ba dưới hướng dẫn nội soi não thất, nhằm giải quyết tắc nghẽn tuần hoàn dịch não tủy ở não thất ba thông qua ống não giữa đến não thất bốn. Tạo một lỗ ở não thất ba để dẫn dịch não tủy đến bể trước cầu não.
Nếu không thể xác định nguyên nhân hoặc nguyên nhân không thể giải quyết bằng phương pháp ngoại khoa, ngoại khoa thường có phương án điều trị bảo tồn, gọi là phẫu thuật dẫn lưu dịch não tủy.
Thời gian gấp rút, các bác sĩ khoa Ngoại Thần kinh vào phòng bệnh kiểm tra trước.
Bác sĩ Kim ở bên ngoài chờ, đợi họ kiểm tra đến phòng bệnh của mình rồi mới vào xem.
Kiểm tra từ giường cuối trở lên, đến giường 23 là bạn của bác sĩ Kim, bệnh nhân là nữ, khoảng ba mươi, bốn mươi tuổi. Ban đầu chẩn đoán có thể là tràn dịch não do nhiễm trùng, vì tạm thời chưa tìm ra nguyên nhân khác. Tuy nhiên, sau khi phát hiện dị dạng động tĩnh mạch não, khó nói là vấn đề nào trước, vấn đề nào sau.
Tình trạng hiện tại của bệnh nhân khá nghiêm trọng, đã xuất hiện tình trạng ngủ lịm.
Các sư đệ, sư muội đến rồi.
Khi kiểm tra, Hoàng Chí Lỗi cho các sư đệ lên kiểm tra thần kinh cho bệnh nhân, coi như là bài kiểm tra thực tế.
Theo suy nghĩ của Bạn học Phan và các bạn khác, chỉ nhìn đầu bệnh nhân thì không thể biết được tình trạng tràn dịch não bên trong.
Muốn kiểm tra chứng mất phối hợp vận động, bệnh nhân ngủ lịm, muốn bệnh nhân mở mắt trả lời câu hỏi thì bệnh nhân không thể phối hợp với bác sĩ.